1) Bối cảnh lịch sử và sự chuẩn bị lực lượng
Những năm đầu thập niên 1940, đất nước ta oằn mình trong cảnh "một cổ hai tròng": thực dân Pháp duy trì bộ máy cai trị, trong khi phát xít Nhật áp đặt thống trị quân sự. Nạn đói khủng khiếp năm 1945 cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào (1). Dẫu vậy, ngọn lửa cách mạng vẫn âm ỉ trong lòng dân tộc.
Từ khi ra đời (03/02/1930), Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định lãnh đạo nhân dân qua các cao trào: 1930–1931 (đỉnh cao Xô viết Nghệ - Tĩnh), 1936–1939 (phong trào dân chủ), 1939–1945 (cao trào giải phóng dân tộc). Trên nền tảng đó, Đảng tổ chức, giác ngộ quần chúng; xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang; gây dựng căn cứ địa cách mạng (nòng cốt là Việt Bắc). Các tổ chức như Việt Minh, Cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân hình thành và trưởng thành, tạo thế, lực, thời cơ cho khởi nghĩa giành chính quyền (3).
2) Thời cơ lịch sử và Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, cục diện thuộc địa thay đổi căn bản. Chủ trương của Đảng được kịp thời cụ thể hóa trong Chỉ thị ngày 12/3/1945 "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", xác định mâu thuẫn chủ yếu với phát xít Nhật và chuyển hướng đấu tranh (3).
Khi Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện (15/8/1945), thời cơ "ngàn năm có một" xuất hiện. Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1 (13/8); Hội nghị Toàn quốc của Đảng tại Tân Trào và Quốc dân Đại hội (16–17/8) quyết định Tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách lớn, bầu Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch (3).
Trong 15 ngày (14-28/8/1945), cao trào khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi trên phạm vi cả nước: Hà Nội 19/8, Huế 23/8, Sài Gòn - Gia Định 25/8… đến 28/8, chính quyền về tay nhân dân trên toàn quốc (3).
3) Quốc khánh 2-9-1945: Khai sinh Nhà nước Việt Nam mới
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, trang trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập." (2)
Sự kiện này khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và nhân dân làm chủ.
4) Giá trị thời đại
Mở kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc: từ thân phận thuộc địa sang địa vị một quốc gia độc lập, nhân dân là chủ thể quyền lực.
Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, chứng minh một dân tộc thuộc địa có thể tự giải phóng nếu có đường lối đúng và khối đại đoàn kết toàn dân.
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như sức mạnh đại đoàn kết dân tộc – nhân tố quyết định mọi thắng lợi (2)(3).
5) Bài học lịch sử
- Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhân tố hàng đầu, nhất quán dẫn dắt cách mạng đến thắng lợi (3).
- Nắm bắt thời cơ và quyết đoán hành động - từ nhận định chiến lược đến tổ chức lực lượng, phát lệnh khởi nghĩa đúng lúc (3).
- Phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng ba thứ quân, căn cứ địa - hậu phương cách mạng (3).
- Tin dân, dựa vào dân, vì dân - coi nhân dân là chủ thể, là nguồn lực và là mục tiêu tối thượng của mọi quyết sách (2)(3).
6) Sức sống trường tồn
Sau 80 năm, tinh thần Tháng Tám - Quốc khánh 2-9 vẫn bền vững, tiếp tục soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
- Nguồn cảm hứng và động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bền bỉ trên con đường đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
- Lời nhắc nhở trách nhiệm lịch sử đối với sự nghiệp giữ gìn độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 không chỉ là tri ân các thế hệ đi trước, mà còn là thời khắc để củng cố niềm tin, ý chí và khát vọng về tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.
(Admin)
Chú thích nguồn tài liệu tham khảo:
1. Hồ sơ, tài liệu của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Khoa học Xã hội, 1985, tr. 341–345.
2. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2011, tr. 3–5.
3. Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7–8, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2000.